Điểm tin báo chí sáng ngày 17 tháng 9 năm 2012
Trong buổi sáng ngày 17/9/2012, một số báo đã có bài phản ánh vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN NỔI BẬT
1. Báo điện tử Chính phủ đưa tin Tổ máy cuối cùng Thủy điện Sơn La phát điện vào cuối tháng 9. Ban quản lý dự án Nhà máy Thủy điện Sơn La cho biết, công tác lắp đặt tổ máy số 6 đang khẩn trương, đúng tiến độ, cuối tháng 9 sẽ phát điện tổ máy cuối cùng. Cuối năm nay sẽ tổ chức khánh thành công trình trọng điểm quốc gia này.
Dự kiến ngày 24/9, tổ máy cuối cùng được khởi động không tải và sẽ phát điện vào ngày 27/9, nâng tổng công suất phát điện của nhà máy lên 2.400 MW như thiết kế, cung cấp trên 10 tỉ kWh điện cho hệ thống điện quốc gia mỗi năm.
Sau khi phát điện tổ máy số 6 (tổ máy cuối cùng của Thủy điện Sơn La), các đơn vị thi công cũng sẽ hoàn thành những công đoạn cuối để có thể khánh thành toàn bộ nhà máy vào tháng 12 năm nay.
Thủy điện Sơn La là nhà máy có công suất lớn nhất Đông Nam Á , 6 tổ máy với tổng công suất 2400MW, được xây dựng tại xã It Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Dự án do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) làm chủ đầu tư .
2. Báo Người Lao động đưa tin Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì thành Di tích Quốc gia. Tối 16-9, tại huyện Hoàng Su Phì, UBND tỉnh Hà Giang đã tổ chức lễ đón nhận bằng Di tích Quốc gia Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì.
Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì nằm ở các xã Bản Luốc, Sán Sả Hồ, Bản Phùng, Hồ Thầu, Nậm Ty, Thông Nguyên. Bà con các dân tộc La Chí, Dao Đỏ, Dao Áo dài, Nùng là chủ nhân của những thửa ruộng bậc thang ở đây. Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì xuất hiện từ vài ba trăm năm trước. Ngày nay, mỗi năm, ruộng bậc thang đem lại từ 25.000 – 27.000 tấn thóc; trên 3.000 ha đậu tương và hàng ngàn ha bắp, đậu các loại, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an ninh lương thực cho hơn 60.000 người dân huyện Hoàng Su Phì.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Chính phủ có bài UBTVQH thảo luận dự án Luật Hộ tịch. Sáng 13/9, UBTVQH thảo luận dự án Luật Hộ tịch, do Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường thay mặt Chính phủ trình.
Ý tưởng loại bỏ các giấy tờ gắn liền với nhân thân của mỗi người như (giấy khai sinh, đăng ký kết hôn, khai tử, giám hộ, nhận cha mẹ nuôi, xác định lại dân tộc, giới tính,…) và việc cấp một mã số định danh cho mỗi người (căn cứ vào con số này có thể biết tất cả các sự kiện trong đời của họ) trong dự thảo Luật được các thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đánh giá cao và cho rằng, điều này có tính cải cách.
Mặc dù đánh giá nếu làm được như vậy là rất tốt, tạo thuận lợi cho người dân nhưng các ý kiến của các ủy viên UBTVQH chưa đồng tình với quy định “nơi quản lý Sổ hộ tịch”. Trong trường hợp cá nhân thay đổi nơi cư trú mà có phát sinh, thay đổi sự kiện hộ tịch thì lại phải chuyển dữ liệu phát sinh, thay đổi đó về nơi đăng ký khai sinh để bổ sung, điều chỉnh trong Sổ hộ tịch là rất khó bảm đảm tính khả thi, kịp thời và chính xác.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước nêu trường hợp người sinh ra trên máy bay thuộc không phận nước khác thì việc cấp Sổ hộ tịch khó thực hiện. Còn Ủy ban Tư pháp thì cho rằng UBND cấp xã, nơi cá nhân đăng ký thường trú giữ Sổ hộ tịch thì việc điều chỉnh thông tin trong Sổ hộ tịch mới kịp thời, đầy đủ và chính xác.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cùng một số thành viên khác lại đòi hỏi cao hơn khi khát quát rằng cơ quan soạn thảo phải hình dung nếu lập Sổ hộ tịch cá nhân thì Sổ này sẽ thay thế được bao nhiêu loại giấy tờ (khai sinh, kết hôn, chứng tử…).
Các ý kiến đều cho rằng xây dựng Luật Hộ tịch quan trọng nhất là xuất phát từ lợi ích phục vụ nhân dân chứ không phải là từ việc quản lý chặt chẽ, thuận lợi hơn. Ông Ksor Phước đề nghị cơ quan soạn thảo và thẩm tra cần nhìn nhận cả các luật khác và nếu thấy không phù hợp thì bãi bỏ để cuối cùng công dân chỉ cần có 1 cuốn sổ.
Về việc làm hai loại sổ trên và việc cấp mã số định danh cá nhân, các ý kiến cho rằng nếu đã làm thì phải làm cho tất cả 87 triệu dân để đồng bộ. Một số ý kiến cho rằng cơ quan thực hiện cũng phải xác định 5- 10 năm sau sẽ hoàn thành việc cấp các loại sổ này.
Các ủy viên UBTVQH là ông Phan Xuân Dũng và ông Đào Trọng Thi lo ngại việc hạ tầng công nghệ thông tin của Việt Nam hiện nay chưa thể đảm bảo cho việc tích hợp và ứng dụng từ các thông tin hộ tịch của cá nhân.
Khi chưa chín muồi để thực hiện dự án này, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện và Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội Trương Thị Mai đề nghị cần hoàn thiện một bước việc ban hành, quản lý những giấy tờ hiện hành để làm cơ sở cho những đổi mới nói trên.
Ông Hà Hùng Cường và ông Phan Trung Lý, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đề nghị chưa đưa dự án Luật này ra kỳ họp thứ 4 của Quốc hội để dành thời gian cho việc xây dựng chiến lược chung và một đề án vạch rõ lộ trình thực hiện.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Đảng bộ Bộ Tư pháp triển khai Nghị quyết hội nghị TƯ 5 (khóa XI). Bài báo đưa tin: Hôm qua (14/9), Đảng ủy Bộ Tư pháp phối hợp với Ban Cán sự Đảng bộ Bộ Tư pháp tổ chức quán triệt, triển khai Nghị quyết Hội nghị TƯ 5 (khóa XI) đến đội ngũ cán bộ chủ chốt của Bộ Tư pháp, gồm Ban Cán sự, lãnh đạo Bộ, Ban Chấp hành Đảng bộ, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, các Ban thuộc Đảng ủy, Ủy viên Ban Chấp hành và cán bộ Văn phòng các Đảng bộ cơ sở, Bí thư các Chi bộ, Trưởng các tổ chức chính trị – xã hội thuộc Bộ.
Trong số 5 vấn đề quan trọng đã được bàn và kết luận tại Hội nghị TƯ 5 (khóa XI), Hội nghị đã quán triệt, triển khai các nội dung tổng kết việc thi hành và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; tổng kết thực hiện NQ TƯ 7 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước; tiếp tục thực hiện NQ TƯ 3 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí”.
Hai nội dung về “một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”; “một số vấn đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền lương đến hết năm 2020” sẽ được các đảng bộ, chi bộ cơ sở, chi bộ trực thuộc phối hợp với Thủ tưởng đơn vị quán triệt, triển khai tới Đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc đơn vị mình.
3. Báo Lao động mục nhắn tin đưa tin: Sau gần hai tháng chuyển đơn thư của bạn đọc, tòa soạn chưa nhận được hồi âm của cơ quan: Chi cục Thi hành án dân sự TP.Hải Dương (Hải Dương) đối với Đơn của Cty CP vận tải biển Trường Xuân (địa chỉ số 219, khu 8, thị trấn Diêm Điền, Thái Thụy, Thái Bình) về việc Cty CP công nghiệp tàu thủy Hải Dương (thuộc TCty CNTT Bạch Đằng, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy VN) chưa thi hành quyết định thi hành án số 12/QĐ –THA ngày 5.11.2010, trả cho Cty vận tải biển Trường Xuân số tiền theo bản án ngày 30.9.2010 của TAND TP. Hải Dương.
4. Báo Nhân dân điện tử mục kết quả thư bạn đọc đưa tin: Ðơn của bà Thái Thị Nhường ở số 318/243 đường Phạm Văn Hai, phường 5 (Tân Bình, TP Hồ Chí Minh) khiếu nại về Bản án số 194/DSPT ngày 15-9-2012 của Tòa án Nhân dân TP Hà Nội xử vụ án tranh chấp tài sản thừa kế, có hiệu lực pháp luật từ 12 năm nay, nhưng chưa được thi hành. Sau đó, ngày 15-5-2012, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án quận Ba Ðình đột ngột ra quyết định đình chỉ giải quyết với lý do bản án hết thời hiệu. Về việc này, Tòa án Nhân dân TP Hà Nội có Công văn trả lời số 213/CV ngày 4-9-2012, nội dung chính như sau: Tòa án Nhân dân TP Hà Nội chuyển đơn của bà Thái Thị Nhường tới Cục Thi hành án dân sự TP Hà Nội để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
5. Báo Hà Nội mới Online có bài Góc khuất sau vụ chiếm đất tại TP Móng Cái (kỳ 2): Bí mật bị lộ tẩy. Bài báo phản ánh: Tại sao vụ án làm giả sổ đỏ để cướp đất ở TP Móng Cái lại không bị khởi tố? Khi tiếp cận với các cơ quan chức năng và người dân, PV đã nhận được nhiều nguồn tin quan trọng và đáng tin cậy liên quan đến Cao Quang Ngọc – nhân vật bị gia đình bà Chiên tố “cướp đất”.
Khi tiếp cận với hồ sơ vụ việc về tranh chấp đất đai giữa gia đình bà Chiên và ông Cao Quang Ngọc, PV phát hiện nhiều điểm điểm khuất tất cần phải được làm rõ để đưa kẻ lừa đảo ra trước pháp luật.
Theo khẳng định của bà Chiên, ông Thôn, hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 19-10-2006 là giả mạo, do chính Cao Quang Ngọc tự lập ra, chữ ký của ông bà tại hợp đồng này là giả. Chính hợp đồng chuyển nhượng có con dấu, chữ ký của Chủ tịch UBND phường Ninh Dương Phạm Thị Minh Hồng này đã là căn cứ chính để phòng TNMT TP Móng Cái làm thủ tục sang chuyển nhượng QSDĐ từ ông Thôn sang ông Ngọc và cấp sổ đỏ mới cho ông Ngọc. Tuy nhiên, hợp đồng bị tố giả mạo này đã không được các cơ quan chức năng đưa đi giám định (chỉ giám định giấy Mua bán đất viết tay giữa vợ chồng ông Thôn, bà Chiên vào ngày 16-10-2006).
Vụ việc rõ như ban ngày khi vào ngày 10-5-2010, UBND phường Ninh Dương đã có văn bản số 12 khẳng định “chưa bao giờ chứng thực việc mua bán đất giữa ông bà Chiên, Thôn và Cao Quang Ngọc”. Vậy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 19-10-2010 giữa ông Thôn và ông Ngọc “mọc” từ đâu ra? Ai “đẻ” ra hợp đồng này để ông Ngọc có thể chiếm hàng trăm m2 đất của vợ chồng bà Chiên?
Ngày15-8-2012, PV đã tiếp cận bà Phạm Thị Minh Hồng, nguyên Chủ tịch UBND phường Ninh Dương, hiện là Phó phòng Nội vụ TP Móng Cái. Lúc đầu, bà Hồng khẳng định: “Việc mua bán giữa ông Ngọc với ông bà Chiên – Thôn không qua phường chứng thực, họ tự làm“. Tuy nhiên, khi nhìn thấy bản Hợp đồng ngày 19-10-2006 do UBND phường Ninh Dương chứng thực với chữ ký của chính mình thì bà Hồng lúng túng: “Đúng là chữ ký của tôi. Lâu rồi tôi không nhớ gì nữa”.
Sau khi nhiều tờ báo phản ánh vụ việc này, ngày 13 -7, UBND tỉnh Quảng Ninh đã có văn bản chỉ đạo UBND TP Móng Cái, Sở TN&MT kiểm tra, rà soát quy trình cấp Giấy CNQSDĐ cho hộ gia đình bà Đỗ Thị Chiên và ông Trịnh Văn Thôn và thông báo kết quả với UBND tỉnh đồng thời, thông tin đến báo chí biết trả lời bạn đọc. Không dám nhìn thẳng vào sự thật, một lần nữa UBND TP.Móng Cái lại có dấu hiệu bao che sai phạm khi cho rằng: “Tại thời điểm phát hiện vụ việc một số cán bộ, gồm cán bộ theo dõi địa bàn phường Ninh Dương và lãnh đạo của phòng TNMT TP đang bị tạm giam do có liên quan đến vụ án sai phạm đất đai tại phường Hải Hòa. Do đó, UBND thành phố đã không chuyển hồ sơ sang cơ quan cảnh sát điều tra và không đề xuất xử lý cán bộ liên quan”.
Không chấp nhận cách giải thích trên, ngày 7-8-2012, UBND tỉnh Quảng Ninh tiếp tục có Văn bản số 3777, chỉ đạo UBND TP Móng Cái kiểm tra xử lý nghiêm trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến vụ việc này. “Trường hợp sau ngày 31-8, không xác định được đối tượng sai phạm, yêu cầu UBND TP Móng Cái chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật…”.
Theo thông tin mới nhất nhận được, vụ tranh chấp đất đai giữa gia đình bà Chiên, ông Thôn với ông Cao Quang Ngọc đã được UBND TP Móng Cái chuyển cơ quan điều tra, CA TP Móng Cái theo đúng tinh thần của UBND tỉnh Quảng Ninh.
6. Báo Tuổi trẻ Online có bài Cần tăng thêm quyền lợi cho hòa giải viên. Bài báo đưa tin: Đây là ý kiến của nhiều đại biểu tại buổi góp ý dự án Luật hòa giải cơ sở, do Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM tổ chức ngày 14-9.
Theo các đại biểu, luật cần quy định cụ thể hơn về chế độ đãi ngộ, quyền lợi và quyền hạn của hòa giải viên. Đại diện Sở Tư pháp TP.HCM đặt vấn đề cần có chế độ công nhận tương đương thương binh, liệt sĩ cho những hòa giải viên bị xâm hại thân thể trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Sau khi góp ý kiến, dự án Luật hòa giải cơ sở sẽ được lấy ý kiến lần đầu tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII sắp tới.
7. Báo Dân Việt có bài “Cuộc cách mạng” giấy tờ. Bài báo phản ánh: Một công dân Việt Nam đang phải “nhét ví” bao nhiêu loại giấy tờ: 5? Hay 7? Hay 9? Hôm qua, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu – nguyên là Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đã nêu ra một con số thật mà như bịa:..
Một công dân “phải có” đến 15 loại giấy tờ. Và tương ứng, cũng trên chục các “con số” gắn với nhân thân một người: Số chứng minh thư nhân dân, mã số thuế, số tài khoản…Nếu ai đó 1 lần mất ví, có lẽ, sẽ thấm thía sự khốn khổ đắng cay của việc bỏ ra nhiều tháng trời, đi hàng chục “cửa” để làm lại cả chục loại giấy tờ.
Công dân Việt Nam đang vô địch thế giới về việc phải có một con số cũng thuộc diện “kỷ lục thế giới” về giấy tờ cần và đủ để có thể làm một công dân không bị sách nhiễu. Nhưng có lẽ, con số càng kỷ lục, chỉ càng cho thấy sự phức tạp, chồng chéo, lạc hậu và trì trệ trong quản lý hành chính.
Ước mơ “một cuốn sổ, một con số” hôm qua đã được đưa ra. Theo đó, tất cả các loại giấy tờ tư pháp sẽ được “gói” trong chỉ 1 cuốn sổ, được gọi là “sổ hộ tịch”. Các con số, mà số nào cũng có trên chục chữ số- cũng vậy, được quy thống nhất trong chỉ 1 con số:“Số định danh công dân”.
Nhưng điều này hoàn toàn không dễ thực hiện, nếu như không nói là bất khả thi bởi câu chuyện “một cuốn sổ, một con số” liên quan đến “một cửa”, liên quan đến việc các bộ, ngành phải “ngồi lại” với nhau. Có hai ví dụ thời sự để minh chứng cho sự “bất khả thi”. Đó là đề xuất của Bộ Công an về việc đưa tên cha mẹ vào giấy chứng minh thư nhân dân dù Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) cho rằng điều này không phù hợp với Công ước về quyền trẻ em, xâm phạm quyền bí mật đời tư.
Một đề xuất vì việc quản lý của ngành, hơn là vì quyền lợi của người dân. Và ví dụ thứ hai, là “câu chuyện nhỏ” mà Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện kể trước nghị trường: Một vị quan chức, bạn ông, có lần “chỉ ăn mặc bình thường” ra phường xin xác nhận. Ông này vào bộ phận một cửa để làm thủ tục, nhưng chờ hết vị này uống nước xong, lại đến vị kia mà không xong được việc.
Ngày hôm sau, ông mặc complet, xưng tên tuổi, chức vụ đàng hoàng, đi vào ủy ban thì có ngay vị phó chủ tịch phường ra đón tiếp, giấy tờ xác nhận chỉ hơn 10 phút là xong…
Dù phải cần tới 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa, một cuộc cách mạng về giấy tờ, thực ra là bớt đi sự phiền toái, bớt đi sự “hành là chính” đối với người dân là cực kỳ cần thiết. Nhưng điều còn cần thiết hơn, cần thiết ngay, là một cuộc cách mạng trong thái độ và quan niệm của công chức nhà nước trong việc phục vụ những người đóng thuế để trả lương cho chính họ.
8. Trang vtv.vn có bài Gần 50% đồng bào dân tộc thiểu số tảo hôn. Bài báo phản ánh: Gần một nửa số cặp vợ chồng kết hôn ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tảo hôn là thông tin mới được Chi cục dân số và Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Lai Châu và nhiều địa phương công bố gần đây.
Nhiều xã có hàng trăm cặp vợ chồng trẻ con “ăn chưa no, lo chưa tới”. Thậm chí, ở nhiều bản, 17 – 18 tuổi mà chưa lấy chồng được xem là ế. Và thế là, 14 tuổi, cùng lắm là 15 tuổi, nhiều em gái, em trai đã bị nhà người ta “ bắt vợ”, “bắt chồng”. Phép vua thua lệ làng, mặc cho bao nhiêu quy định của nhà nước, bao nhiêu nỗ lực trong công tác tuyên truyền ở địa phương – nạn tảo hôn vẫn đang là vấn đề nhức nhối, đe dọa chất lượng dân số ở những địa bàn đặc biệt khó khăn.
Xoang Mẩy cũng ở xã Tả Phìn, huyện Sìn Hồ, Lai Châu đang học lớp 7 thì phải nghỉ học lấy chồng -lấy người con trai mà chị mới gặp 1 lần duy nhất trong phiên chợ đầu năm, người mà bố mẹ chị đã “ưng cái bụng”. Bạn bè Xoang Mẩy ai cũng thế cả. 14, 15 tuổi mà chưa có ai để ý thì coi như ế.
Kết hôn và làm mẹ quá sớm, những người phụ nữ dân tộc gần như không có kiến thức gì về việc chăm sóc con cái.
Người Dao, người Mảng, người Mông và nhiều đồng bào dân tộc thiểu số khác đang có xu hướng người thấp, nhỏ dần, cân nặng từ 40 – 45kg, cao 1m45 – 1m50. Tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong cũng rất cao.Trẻ vị thành niên kết hôn khi cơ thể chưa phát triển hoàn thiện, thiếu hiểu biết về sức khỏe sinh sản là một trong những nguyên nhân trực tiếp.
9. Cũng về vấn đề tảo hôn Báo Nông nghiệp Việt Nam có bài Bình Định: Mênh mang lời ru buồn. Bài báo phản ánh: Chuyện thành vợ thành chồng của lớp trẻ ở đây nghe ra rất đơn giản. Không màng đến tuổi tác. Mặc kệ đang ngồi ghế nhà trường. Cứ thấy ưng cái bụng là thoải mái đến với nhau.
Ông Đinh Văn Xoa, cán bộ tư pháp xã An Dũng, bày tỏ: “Những trường hợp học sinh quan hệ với nhau khi đang ngồi ghế nhà trường, đích thân chúng tôi đã đến làm việc với nhà trường và gia đình để khuyên bảo, phân tích điều hay lẽ phải nhưng các cháu vẫn không nghe, nhất định phải lấy nhau”.
Trong số 15 trường hợp tảo hôn mà huyện An Lão thống kê được từ đầu năm 2012 đến nay, con số nhiều nhất rơi vào xã An Dũng (5 trường hợp), còn lại là xã An Hưng 3 trường hợp, An Trung 2, số còn lại xay ra tại các xã An Nghĩa, An Vinh… Hầu hết các trường hợp tảo hôn đều là học sinh đang theo học tập trung tại các trường nội trú.
Ông Đinh Văn Xoa lý giải: “Nạn tảo hôn phần lớn rơi vào học sinh nội trú. Trong môi trường này, các em có dịp ở gần bên nhau nên nảy sinh tình cảm, “lửa gần rơm” mà. Trong khi đó lại không có gia đình ở bên cạnh nên chúng dễ đi đến mật thiết, rồi tiến tới làm “chuyện người lớn”. Khi cha mẹ biết được thì chuyện đã rồi”.
Ông Phạm Minh Xây, Trưởng phòng Tư Pháp huyện An Lão, đưa ra dẫn chứng: “Vào năm 2009, có một chị đương là Chủ tịch Hội phụ nữ xã tổ chức đám cưới cho con mình trong khi cháu chưa đủ tuổi kết hôn. Sau đám cưới, chị ấy bị cách chức và phải chịu kỷ luật Đảng”.
Rồi ông Xây cho biết thêm: “Trước đây, chuyện tảo hôn xảy ra thường xuyên trên địa bàn huyện An Lão, hầu hết các trường hợp đều rơi vào những hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Trong khi đó, ở huyện An Lão có hơn 26.000 dân thì đã có đến hơn 1/3 là đồng bào Bana và Hrê, nên chúng tôi rất khó khăn trong việc ngăn chặn việc này. Có nhiều trường hợp đám cưới diễn ra xong, sự việc mới được chính quyền cơ sở báo lên. Với nhận thức của đại bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số, họ không biết con trai con gái đến bao nhiêu tuổi thì mới được kết hôn. Hễ thấy con mình “to xác” là nghĩ đã có thể dựng vợ gả chồng cho chúng. Có những bà mẹ trẻ đến mức không biết chăm sóc cho con”.
III- CÁC NỘI DUNG KHÁC
Báo điện tử Chính phủ có bài Cảnh giác với thông tin từ những trang mạng xấu. Bài báo phản ánh: Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ hôm 12/9 vừa qua về việc xử lý những trang mạng có nội dung thông tin chống Đảng, Nhà nước… đang nhận được sự đồng tình hưởng ứng của giới báo chí, truyền thông chân chính và đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Chưa bao giờ những trang mạng nặc danh và giả danh lại rầm rộ tấn công vào Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta như thời gian gần đây.
Thủ đoạn quen thuộc của những trang mạng này như báo Đại Đoàn kết chỉ ra rằng: Họ “mập mờ khoe” với người đọc mình có nhiều thông tin “cung đình”, bí mật đời tư, mối quan hệ giữa các vị lãnh đạo… Nhưng bản chất những thông tin đó là bịa đặt, suy diễn, áp đặt thái độ chủ quan của những người luôn ôm ấp ý đồ chống phá; tất cả thông tin họ đưa ra đều không có cơ sở kiểm chứng, cố tình tạo hoài nghi cho xã hội với âm mưu gây mất lòng tin. Họ không muốn đất nước này bình yên…
Để thực hiện ý đồ ấy, cách thông tin của những trang mạng này vô cùng ác ý, đánh vào sự hiếu kỳ, tò mò của “tâm lý đám đông”, xoi mói, dựng chuyện, bịa đặt về cá nhân của lãnh đạo các cấp, nhất là các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước.
Theo VOV, nguồn thông tin của họ không minh bạch đã đành, họ còn kết nối nhiều sự kiện với nhau rồi quy kết, suy diễn, thật giả không biết đâu mà lần, chẳng khác gì cầm bùn ném vào người khác, khiến những người vô can cũng dính bùn. Rõ ràng những trang mạng này danh không chính, ngôn không thuận, nội dung hoàn toàn đi ngược với tôn chỉ, mục đích cao cả của truyền thông. Họ đã tự đánh rơi chiêu bài yêu nước, hiện nguyên hình là những kẻ thù địch với dân tộc Việt Nam.
Vì sao vừa qua những trang mạng mạo danh người yêu nước, nhân danh “tự do tư tưởng”, lại có thể a dua nhau và rầm rộ xúc phạm đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam như vậy?
Một trong những lý do dễ nhận thấy là họ lợi dụng chủ trương của Đảng, chính sách của Chính phủ phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin-truyền thông, nhất là thông tin điện tử, Internet phục vụ nhu cầu thông tin của nhân dân, mở rộng và nâng cao dân chủ xã hội. Nhờ sự ưu việt của chính sách ấy, đến nay nước ta có gần 40 triệu người dùng Internet, chiếm khoảng 35% dân số. Dự báo đến năm 2015, số người dùng Internet sẽ khoảng từ hơn 40-50 triệu người chiếm xấp xỉ 50% dân số cả nước. Cũng hiện có khoảng 13 triệu thuê bao 3G thường xuyên truy cập để khai thác thông tin qua mạng. Những người Việt Nam hay đi công tác hoặc du lịch nước ngoài và bạn bè quốc tế đến Việt Nam đều có chung nhận xét: Ở Việt Nam sử dụng Internet hoặc các mạng xã hội thuận tiện hơn một số nước phát triển trên thế giới.
Nhưng với sự tiện lợi ấy, những trang mạng nói trên đã triệt để khai thác các thế mạnh của thông tin điện tử, Internet phục vụ cho mưu đồ đen tối hòng làm mất ổn định xã hội, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, làm sụp đổ thành tựu kinh tế xã hội và thành quả hơn 20 năm Đổi mới mà nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã vượt qua không biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ mới xây dựng được nên.
Theo báo Quân đội nhân dân thì hàng trăm trang web, blog “đen” do hơn 400 tổ chức phản động trong và ngoài nước lập nên xen lẫn hàng trăm trang web, blog cá nhân với thông tin tốt-xấu, thật-giả lẫn lộn, có loại ẩn chứa âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch; có loại vô tình “nối giáo cho giặc”, “quá mù ra mưa” đang tạo ra những cơn “nấm độc thông tin” nhằm vào Đảng, Nhà nước và cuộc sống của nhân dân ta.